Cần áp dụng chính xác điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự

15/04/2022 09:16:39AM
Màu chữ Cỡ chữ
Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (viết tắt là Bộ luật Hình sự) đã lượng hóa nhiều tình tiết định tính của Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 như: “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”; “số lượng lớn”, “số lượng rất lớn”, “số lượng đặc biệt lớn”; “giá trị lớn”, “giá trị rất lớn”, “giá trị đặc biệt lớn”; “thu lợi bất chính lớn”, “thu lợi bất chính rất lớn”, “thu lợi bất chính đặc biệt lớn”; “đất có diện tích lớn”, “đất có diện tích rất lớn”, “đất có diện tích đặc biệt lớn” bằng các quy định cụ thể trong Bộ luật Hình sự.

Nhiều tội phạm, trong đó có các tội xâm phạm sở hữu, tội phạm về ma túy đều quy định mức khởi điểm phải chịu trách nhiệm hình sự, các trường hợp phạm tội dưới mức khởi điểm có thể phải chịu trách nhiệm hình sự nếu đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị kết án về tội đó.

Hình ảnh bắt giữ đối tượng vận chuyển trái phép chất ma túy xảy ra tại huyện Đức Hòa

 

Điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các điều 248, 250, 251 và 252 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;”

Trong thực tiễn có những cách hiểu và áp dụng khác nhau:

Cách hiểu thứ nhất cho rằng điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự chỉ áp dụng cho những trường hợp tàng trữ trái pháp chất ma túy khi khối lượng hoặc thể tích chất ma túy chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm từ điểm b đến điểm i khoản 1 Điều này. Chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy khi khối lượng hoặc thể tích chất ma túy không đạt mức tối thiểu được quy định từ điểm b đến điểm i khoản 1 khi người đó đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các Điều 248 (tội “Sản xuất trái phép chất ma túy”), 250 (tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”), 251 (tội “Mua bán trái phép chất ma túy”) và 252 (tội “Chiếm đoạt chất ma túy”) của Bộ luật này, chưa được xóa án tích. Trường hợp người phạm tội đã bị kết án về các tội theo quy định chưa được xóa án tích thì bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm; trường hợp đã bị xử lý vi phạm hành chính về hành vi này thì chỉ xem xét về nhân thân. Vì điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự phải được hiểu là hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy chỉ bị coi là tội phạm khi thỏa mãn hành vi khách quan của tội phạm trong trường hợp dưới định lượng của tội phạm nếu thỏa mãn một trong các dấu hiệu như: Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này; đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; đã bị kết án về một trong các tội quy định tại các Điều 248, 250 251 và 252 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Do đó, quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự phải được hiểu là quy định đối với người thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy khi chưa đủ định lượng thỏa mãn cấu thành cơ bản của tội phạm.

Cách hiểu thứ hai cho rằng đây là một trong những tình tiết định khung, do đó khi một người thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với khối lượng, thể tích đạt mức tối thiểu được quy định từ điểm b đến điểm i khoản 1 Điều này mà còn thỏa mãn các điều kiện được quy định tại điểm a khoản 1 Điều này, thì ngoài việc áp dụng một trong các điểm từ điểm b đến điểm i, còn phải áp dụng thêm điểm a khoản 1 mới đầy đủ. Bởi vì khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là khung hình phạt cơ bản và khi thuộc một trong các trường hợp theo quy định tại điểm a đến điểm i thì người thực hiện hành vi tàng trữ chất ma túy sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Điều này có nghĩa các trường hợp từ điểm a đến điểm i là ngang nhau trong việc thể hiện tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội. Do đó, bị cáo “Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các Điều 248, 250, 251 và 252 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm” là yếu tố cấu thành tội phạm với tình tiết định khung theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, vì điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự không đăt ra yếu tố khối lượng, thể tích tối thiểu của chất ma túy được tàng trữ. Do đó khi một người thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với khối lượng, thể tích được quy định từ điểm b đến điểm i khoản 1 Điều này mà có các điều kiện quy định tại điểm a khoản 1 Điều này, thì ngoài việc áp dụng một trong các điểm từ b đến điểm i, còn phải áp dụng thêm điểm a khoản 1.

Vấn đề áp dụng điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự đã được Vụ Pháp chế và quản lý khoa học (Vụ 14) Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn cụ thể trong quyển sách “Giải đáp vướng mắc về pháp luật và giải quyết các vụ án, vụ việc về tội phạm, vi phạm pháp luật về ma túy”, được xuất bản năm 2019. Theo đó, cách hiểu thứ hai là cách hiểu được Vụ 14 đã hướng dẫn, các đơn vị cần nghiên cứu để áp dụng cho chính xác và thống nhất.

 

                                                                                                   Tống Hương

Warning

Warning

No content found for: ‭bnctulibrary/bnctusite/hinhanhlienket/bannerrightbottom‭

 
Liên kết website